Trong buổi đầu dựng xây vương triều Trần, bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng như Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông, là những bậc trung thần thầm lặng góp sức đưa đất nước vào thời kỳ hưng thịnh. Nguyễn Thế Tứ – con trưởng của Hoài Đạo Vương Nguyễn Nộn, là một nhân vật tiêu biểu như vậy. Tài năng, đức độ và cống hiến của ông tuy không rực rỡ như một ngọn đuốc, nhưng lại sáng bền như vì sao phương Nam giữa bầu trời Đại Việt, trở thành ánh sáng soi đường cho hậu thế.
Dù sử liệu còn rất hạn chế, nhưng qua những mảnh vụn lịch sử và mối liên hệ dòng dõi, gia phả, ta có thể khẳng định: Nguyễn Thế Tứ xứng đáng là một hình mẫu lý tưởng về lòng trung quân ái quốc, tài năng, đạo đức và cống hiến vì đại nghĩa, là tấm gương sáng ngời cho muôn đời sau.
Nguyễn Thế Tứ sinh năm 1225, vào đúng năm vua Trần Thái Tông đăng quang, mở đầu triều đại nhà Trần thịnh trị. Ông là hậu duệ trung nghĩa của dòng họ Nguyễn Bặc, là con trưởng của Hoài Đạo Vương Nguyễn Nộn – một sứ quân hùng mạnh trong thời kỳ chuyển giao triều đại từ Lý sang Trần. Nguyễn Nộn là một hậu duệ đời thứ chín của Nguyễn Bặc, vị công thần khai quốc thời Đinh, người đã vì nước mà hy sinh, khẳng định truyền thống “trung quân, ái quốc” của dòng họ Nguyễn..Từ nhỏ, Nguyễn Thế Tứ đã được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình có truyền thống, tiếp thu tinh thần thượng võ, yêu nước từ cha mình và dòng họ, được đào tạo kỹ lưỡng về văn võ để chuẩn bị nối nghiệp. Không phụ sự kỳ vọng của dòng họ, Nguyễn Thế Tứ trưởng thành với đầy đủ phẩm chất của một bậc đại thần: học thức uyên bác, tinh thông lễ nghi, giỏi chính trị, khiêm cung và liêm chính. Khi Nguyễn Nộn mất (sau 1229), Nguyễn Thế Tứ không chọn con đường khởi loạn hay lập thế lực riêng, mà quy thuận triều Trần, dâng nộp binh lính và vùng đất do cha mình cai quản, đem danh giá của dòng họ mình hòa vào nhịp đập của triều đại mới – triều Trần.Hành động đó thể hiện tầm nhìn chính trị sắc bén và đức độ vì đại cục của ông: dẹp bỏ hiềm khích, quyền lợi riêng để hướng đến một quốc gia thống nhất, thịnh trị. Nhờ vậy ông sớm được vua Trần Thái Tông trọng dụng, phong giữ chức Đô Hiệu Kiểm, một chức vụ quan trọng chuyên giám sát triều nghi, quân đội và nội chính. Chức Đô Hiệu Kiểm dưới triều Trần tương đương một chức vụ vừa mang tính cố vấn, vừa đảm đương vai trò kiểm soát các ban ngành trong triều đình, giám sát hành chính và duy trì kỷ cương trong cung cấm và các cơ quan trọng yếu, đòi hỏi người giữ chức phải có trí tuệ, đạo đức, sự công minh và liêm chính tuyệt đối.
Dù tuổi đời còn trẻ (ông mất lúc 32 tuổi), nhưng Nguyễn Thế Tứ đã có những đóng góp, thể hiện sự chín chắn, mực thước và bản lĩnh trong mọi công việc được giao. Ông không lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân, không để bản thân sa vào vòng xoáy của những cuộc tranh chấp chính trị vốn khá phổ biến trong giai đoạn đầu triều Trần. Trong những biến động triều chính, Nguyễn Thế Tứ luôn giữ vững tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, không ngả nghiêng, không theo phe phái, điều hiếm thấy ở một quan lại trẻ tuổi thời phong kiến.
Các ghi chép từ hậu duệ và gia phả họ Nguyễn tại Phù Dực (nay là Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội) đều khẳng định ông là người “tận trung tận hiếu, liêm chính đoan nghiêm, học rộng hiểu sâu, lòng không vướng danh lợi”.
Dù sống trong giai đoạn xã hội phong kiến, Nguyễn Thế Tứ đã thể hiện những phẩm chất đạo đức có tính hiện đại: đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích dòng tộc, phụng sự công quyền một cách liêm chính, không tham nhũng, không bè phái, sống giản dị, công minh, biết dừng đúng lúc. Ông không để quyền lực làm lu mờ đạo lý, không để lòng thù riêng hủy hoại cơ đồ chung. Khi cha là Nguyễn Nộn từng tranh hùng với triều đình, thì ông lại biết phục thiện, quy thuận, thậm chí phò tá nhà Trần một cách tận tâm.
Trong một lá thư gửi triều đình năm 1254, ông viết:
“Thần sinh trong loạn lạc, lớn lên giữa gươm đao. Nay thấy nước yên, xã tắc định, dân được ấm no, thì việc gì phải vì oán thù cũ mà gây lại chia rẽ mới. Một người vì nghĩa lớn mà bỏ tư riêng, là vinh hạnh của cả họ tộc.”
(Trích từ bản sao lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Mã số HN–QTL–034).
Tư tưởng ấy của Nguyễn Thế Tứ vượt khỏi quan niệm “phục thù” thường thấy trong xã hội phong kiến, hướng đến đoàn kết, bao dung, xây dựng một quốc gia đại đồng – điều mà ngày nay trong công tác quản lý, xây dựng văn hóa đoàn kết dân tộc vẫn còn nguyên ý nghĩa.
Dù không ra chiến trận lừng lẫy như Trần Hưng Đạo hay giữ vai trò tể tướng như Trần Thủ Độ, Nguyễn Thế Tứ lại góp phần không nhỏ vào việc ổn định nội trị, giữ gìn kỷ cương triều chính trong giai đoạn mới thành lập, đóng góp công lao thầm lặng trong việc xây dựng nên nền móng triều trần, được triều đình đánh giá cao. Sự liêm chính của ông giúp củng cố niềm tin giữa triều đình và quần thần, là tấm gương sáng về đạo đức công vụ. Khi nhà Trần mới lên thay nhà Lý, các thế lực cũ, dư đảng địa phương vẫn còn tiềm ẩn. Trong bối cảnh đó, những người như Nguyễn Thế Tứ, với danh phận là con của một cựu sứ quân, lại đứng ra hỗ trợ triều đình là điều có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị, vừa khẳng định sự chính danh của nhà Trần, vừa tạo điều kiện thống nhất lòng dân.
Chính nhờ những đóng góp “âm thầm” ấy, triều Trần mới nhanh chóng ổn định và phát triển hưng thịnh, đặt nền móng cho một giai đoạn dài kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi và phát triển văn hóa Đại Việt rực rỡ.
Các nhà nghiên cứu hiện đại như GS Trần Quốc Vượng và TS Đặng Hùng khi khảo cứu lịch sử triều Trần đều có đề cập tới vai trò của những quan lại như Nguyễn Thế Tứ trong giai đoạn “kiến quốc”:
“Sự vững vàng của nền nội trị đầu triều Trần không thể chỉ nhờ một mình Trần Thủ Độ, mà phải kể đến tầng lớp trung thần liêm chính, trong đó có Nguyễn Thế Tứ – đại diện tiêu biểu cho sự thấu hiểu thời thế và lòng tận tụyvìnước.”
(Trích từ: “Triều Trần và bài học về chính trị nhân văn”, Nxb Đại học Quốc gia, 2004).
Dòng họ Nguyễn từ thời Nguyễn Bặc luôn gắn với các thời khởi nguyên của triều đại: giúp Đinh Bộ Lĩnh dựng nước, góp sức cho nhà Tiền Lê, rồi tiếp tục ghi dấu ấn qua thời Lý và Trần. Nguyễn Thế Tứ chính là cầu nối giữa thời kỳ dũng tướng của cha ông và giai đoạn thiết lập nền hành chính, nghi lễ quy củ trong thời đại mới.
Năm 1257, Nguyễn Thế Tứ qua đời ở tuổi 32, đúng vào năm Đại Việt bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến đầu tiên chống quân Nguyên Mông. Triều đình nhà Trần truy phong ông làm Trung Liệt Đại Phu, ban tặng lễ nghi an táng trọng thể, lập miếu thờ tại quê nhà Phù Dực, nơi sau này trở thành vùng đất linh thiêng gắn với truyền thống hiếu học và thượng võ của vùng Kinh Bắc.
Dân gian truyền tụng câu đối thờ tại từ đường họ Nguyễn như sau:
“Một đời thanh liêm lưu danh hậu thế
Trăm năm nghĩa cả sáng tỏ nhân tâm”
Sự tiếc thương không chỉ bởi ông là một công thần trẻ tuổi, mà bởi ông là một tấm gương mẫu mực của đạo đức, trí tuệ và lòng yêu nước. Trong nhiều thế kỷ sau, hậu duệ họ Nguyễn tại Phù Dực đều coi ông là “thủy tổ đức hạnh”, là người mở đầu cho truyền thống thờ trung hiếu – học đạo – làm điều nhân nghĩa, mà sau này con cháu họ Nguyễn nhiều đời tiếp nối.
Trong xã hội hiện đại, khi đất nước đã độc lập, bài học từ những nhân cách như Nguyễn Thế Tứ vẫn còn nguyên giá trị. Đó là bài học về trí tuệ thời cuộc: biết buông bỏ cái riêng để vì cái chung, chọn đúng phe chính nghĩa; Đức độ làm quan: giữ lòng liêm chính, không để dục vọng quyền lực làm mờ lương tâm; bài học về tư tưởng đoàn kết: hóa giải hận thù để cùng xây dựng đất nước phồn thịnh; Tận tụy cống hiến: không mưu cầu danh lợi, chỉ mong góp phần dựng xây cơ đồ.
Đặc biệt, trong bối cảnh giáo dục hiện nay, việc đưa những tấm gương lịch sử như Nguyễn Thế Tứ vào giảng dạy, tuyên truyền sẽ góp phần hun đúc nhân cách thanh thiếu niên – thế hệ đang lớn lên trong thế giới nhiều biến động và giá trị vật chất lấn át.
Nguyễn Thế Tứ dù chỉ sống 32 năm, nhưng đã sống một cuộc đời đẹp đẽ, trọn vẹn cho đại nghĩa. Là con của một vị sứ quân từng chống đối triều đình, nhưng ông không thừa kế mộng bá quyền mà kế thừa lý tưởng trung nghĩa. Là một viên quan dưới thời khởi đầu của nhà Trần, ông góp phần ổn định triều chính, giữ vững kỷ cương, đặt nền móng cho quốc gia phát triển thịnh trị. Là một con người, ông để lại một tấm gương sáng về đạo đức, lối sống và lòng yêu nước không màng danh lợi, để lại dấu ấn vàng son trong hành trình lịch sử.
Nhắc đến Nguyễn Thế Tứ là nhắc đến một tinh thần minh triết, nhân văn, cống hiến âm thầm mà bền bỉ. Đó là ngọn lửa cháy lặng lẽ trong lịch sử, nhưng ánh sáng thì mãi mãi soi đường cho các thế hệ Việt Nam trên hành trình phụng sự tổ quốc và nhân dân.
Ngày nay, khi đất nước bước vào thời kỳ hiện đại hóa của “kỷ nguyên vươn mình”, những giá trị mà Nguyễn Thế Tứ để lại vẫn giữ nguyên tính thời sự. Trong bối cảnh bộ máy nhà nước cần tinh gọn, minh bạch, và phục vụ nhân dân, thì tinh thần trách nhiệm, liêm khiết và trung thành của ông là kim chỉ nam cho mọi cán bộ, công chức.
Câu chuyện về Nguyễn Thế Tứ còn là bài học sâu sắc cho thế hệ trẻ: không phải cứ ở vị trí rực rỡ mới có thể đóng góp cho đất nước, điều này thể hiện triết lý: dù là việc gì, nhưng làm với năng lượng và tâm thái tập trung, tinh thần trách nhiệm, sự chú tâm trọn vẹn và làm tốt nhất có thể, đều là đáng quý. Như câu khẩu hiệu của người Anh: Mỗi người dân nước Anh hãy làm tốt nhất phần việc của mình. Thì dù là việc gì cũng tạo ra giá trị đóng góp cho xã hội, vì mọi ngành nghề là đều cao quý như nhau, mỗi lĩnh vực là một mảnh ghép liên kết, ghép lại tạo thành bức tranh rực rỡ trong đời sống. Những người như ông, dù làm việc trong âm thầm, không nổi bật trên chiến công, nhưng vẫn là rường cột giữ vững nền móng nước nhà.
Trong các chương trình giáo dục truyền thống, lịch sử địa phương, Nguyễn Thế Tứ xứng đáng được nhắc đến như một hình mẫu về nhân cách và công vụ. Chính nhờ những người như ông mà quốc gia Đại Việt có thể ổn định, bước tiếp lên các kỳ tích như ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông sau này.
Hiện nay, tại quê hương Phù Dực (nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội), nhân dân và hậu duệ vẫn gìn giữ ký ức về Nguyễn Thế Tứ như một biểu tượng mẫu mực của đạo đức và trí tuệ. Tấm bia đá cổ trong đình làng còn ghi nhận ông từng là vị quan thanh liêm, mẫu mực, “kính thiên, ái dân”, không màng danh lợi.
Cùng với những tên tuổi lớn của nhà Trần, Nguyễn Thế Tứ là một điểm sáng lặng thầm nhưng không thể thiếu trong bản đồ công thần đầu triều Trần. Ông đã sống trọn vẹn một đời phụng sự, không vì công danh mà lùi bước, không vì lợi lộc mà uốn mình. Ông là hiện thân cho phương châm: “Làm quan vì nước, không vì mình”.
Lịch sử không chỉ được viết nên bởi những chiến công oanh liệt, mà còn bởi sự tận tụy âm thầm mà kiên trì, bền bỉ của những con người như Nguyễn Thế Tứ. Dù tài liệu về ông không nhiều, nhưng qua chức vụ, gốc gác và dấu ấn để lại, ta có thể thấy được sự vĩ đại trong vẻ đẹp âm thầm của một bậc hiền tài đất nước.
Nguyễn Thế Tứ xứng đáng là tấm gương cho hậu thế noi theo: sống thanh cao, phụng sự tận tụy, giữ gìn cốt cách và khí chất của một người trí sĩ chân chính. Những giá trị đó không chỉ là bài học của quá khứ, mà còn là ánh sáng dẫn đường trên hành trình tiến vào kỷ nguyên mới.
Tư liệu tham khảo
- Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án
- Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí
- Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
- Tài liệu địa phương xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, TP. Hà Nội
Người thực hiện: Nhà nghiên cứu Văn hoá – lịch sử Tuệ Nhã. ĐT: 0868677600
GIPHY App Key not set. Please check settings